Lịch sử Hagia_Sophia

Ngôi đền thứ nhất

Phiến đá của công trình của do hoàng đế Theodosius II chỉ đạo xây dựng, mô tả bầy cừu của Chúa

Hiện tại không có bằng chứng hay dấu tích nào cho biết ngôi đền thứ nhất (gọi là Μεγάλη Ἐκκλησία (Megálē Ekklēsíā, "Đền thờ lớn") đã được xây dựng chính xác tại đâu, có lẽ chính tại Istanbul hay "Magna Ecclesia" (một khu vực cổ ở Mỹ Latin).[2]

Trong quá khứ, đền thứ nhất từng là nơi thờ phụng của các tôn giáo Đa thần.[3] Ngôi đền được xây gần cung điện hoàng gia và cạnh bên ngôi đền Hagia Eirene[4]. Ngày 15 tháng 02, năm 360, hoàng đế Constantius II cho khánh thành Hagia Sophia. Và từ đây, cả hai ngôi đền (Hagia Sophia và Hagia Eirene) được dùng để tôn thờ đế chế Byzantine.

Sở dĩ người hiện đại biết đến sự có mặt của Ngôi đền thứ nhất là nhờ những ghi chép của Socrates của dân Constantinopolis[5], ngôi đền dùng tôn thờ hoàng đế Constantine Đại đế. Kiến trúc ngôi đền dựa theo kiến trúc truyền thống Latin với những kiệt tác hội họa, hàng hàng cột chống trần và mái vòm gỗ.

Đền thứ nhất vẫn đang chờ xem xét phong tặng danh hiệu kì quan thế giới.

Cái tên "Megálē Ekklēsíā" đã từng được sử dụng trong một khoảng thời gian khá dài trước khi bị thay thế bởi cái tên "Hagia Sophia" trong cuộc xâm lăng của người Byzantine năm 1453.

Những phiến đá hoa cương của Ngôi đền thứ hai

Ngôi đền thứ hai

Ngày 20 tháng 06 năm 404, Thị trưởng của Constantinople, John Chrysostom, gây mâu thuẫn với nữ chúa Aelia Eudoxia, vợ hoàng đế Arcadius. Ngay sau đó, ông bị bắt và bị đày đi xa xứ. Trong cuộc nổi loạn của dân chúng, phần lớn Ngôi đền thứ nhất bị thiêu cháy. Và hoàng đế Theodosius II ra lệnh xây ngôi đền mới. Ngôi đền thứ hai được xây dựng, khánh thành ngày 10 tháng 10 năm 405. Một nhà thờ thứ hai được xây theo lệnh của Theodosius II, ông khánh thành nó vào ngày 10 tháng 10 năm 405. Sự náo loạn của lễ hội Nika Revolt đã dẫn đến sự tàn phá Ngôi đền thứ hai, ngôi đền đã bị thiêu thành tro bụi chỉ trong hai ngày 13-14 tháng 1 năm 532.

Những phiến đá hoa cương là những phế tích còn tồn tại đến ngày hôm nay, chứng minh sự tồn tại của Ngôi đền thứ hai, và hiện tại chúng đang được lưu giữ trong khuôn viên khu đền hiện tại (Ngôi đền thứ ba). Những phiến đá này là một phần cổng của ngôi đền xưa; được A.M. Schneider khai quật trong cái sân nhỏ nằm ở hướng Tây năm 1935.

Ngôi đền thứ ba

Đền thờ Hồi giáo

Bên trong, tranh vẽ năm 1852 khi là Thánh đường Hồi giáoĐài phun nước (Şadirvan) (??) dùng cho lễ rửa tộiMihrab trong điện thờ, dùng để dựng bàn thờ, chỉ hướng về phía Mecca

Ngay sau khi đế quốc Ottoman (do Muslim Millet dẫn đầu) xâm chiếm Constantinopolis (Istanbul) vào năm 1453, Hagia Sophia bị biến thành đền thờ Hồi giáo như là chiến lợi phẩm của cuộc xâm chiếm. Lúc đó, đền thờ đã hư hỏng rất nặng, nhiều cánh cửa đã hoai mục hay gãy vỡ. Những hư hỏng này được miêu tả rất chi tiết trong quyển ghi chép của nhiều du khách xưa, như Pero Tafur người thành Córdoba, Tây Ban Nha[6] và Cristoforo Buondelmonti người thành Florence, Ý.[7] Vua Thổ Nhĩ Kỳ Mehmed II đã cho trùng tu khu di tích này và lập tức biến nó thành đền thờ Hồi giáo. Sau đó, vua Bayezid II xây thêm một cái tháp để thay thế cái tháp cũ vua cha đã xây.

Vào thế kỉ 16, vua Suleiman I (1520-1566) đem về hai ngọn đèn cầy khổng lồ chiếm được trong cuộc chinh phạt Hungary. Chúng được đặt hai bên hông của mihrab (một khoảng trống trên tường biểu trưng cho Kaaba ở Mecca và để chỉ hướng cúi đầu lạy. Dưới triều vua Selim II (1566-1574), ngôi đền lại xuất hiện thêm nhiều dấu hiệu hư hỏng, và lại được mở rộng trùng tu, bổ sung thêm nhiều quần thể kiến trúc do kiến trúc sư đại tài người Ottoman Sinan chỉ huy xây dựng, ông được xem là kĩ sư vĩ đại với những công trình chống lại động đất. Ngoài ra, để kéo dài tuổi thọ cho kiến trúc lịch sử Byzantine này, Sinan đã xây thêm hai tháp trụ khổng lồ ở phía cực Tây của công trình, và ở lăng Selim II phía Đông nam năm 1574. Hai lăng mộ của các vua Murad IIIMehmed III được xây cạnh bên đền thờ trong thập niên 1600.

Viện bảo tàng

Năm 1935, Tổng thống đầu tiên và là người thiết lập nền Cộng hoà ở Thổ Nhĩ Kỳ, Mustafa Kemal Atatürk, cho biến công trình này thành viện bảo tàng. Người ta dỡ bỏ đệm trải sàn và những tran trí bằng đá hoa cương trên sàn xuất hiện lại lần đầu tiên qua nhiều thế kỷ, cùng lúc đó vôi trăng che kín các tranh khảm đá quý cũng được gỡ ra.[8]